Nhị hợp - lục hại trong tử vi
NHỊ HỢP
- Cung nhị hợp với cung
A cho biết mặt sau của cung A.
VD: cung A là cung Tài
cho biết cách kiếm tiền có Không Kiếp hãm địa trông rất lìu tìu, nhưng có Hóa Lộc
nhị hợp sang (sách gọi là ám Lộc) nhất là cung tài ở thìn cung phụ mẫu ở dậu
Hóa Lộc nhị hợp sang thì xin thưa với các anh đừng tưởng em là thằng khố rách,
em là Rockerfeller 2 tức người thừa kế của siêu tỉ phú là bố em đấy ạ.
- Nhấn mạnh về "ám
trợ"
Bản chất của nhị hợp là
"ám", trợ hay phá tùy cách cục. Ám trợ có nghĩa là chắc chắn không phải
của mình làm ra, không phải do mình làm ra. Nhị hợp tam hóa hàm ý được ám trợ rất
mạnh.
Mặt trái của ám là ám
phá. Nếu nhị hợp với Ta là hung thì Ta bị ám phá.
Khoa minh Lộc ám thì ta
chỉ có Khoa mà Lộc do người khác mang đến.
Ám Quyền thì ta có thể
được một tay quyền lực nào đó chống lưng. Cho nên lá số Tưởng Trung Chính, Khoa
Quyền Lộc chính thủ không thể nói ông ta không có tài năng chỉ ăn may mà có được
sự nghiệp. Nhưng đại vận Tử Phá phát dã như lôi lại do Khoa Quyền Lộc ám hợp,
thì có thể hiểu vào thời gian đó ông ta được sự ủng hộ khủng khiếp như thế nào.
- Nhị hợp là hỗ trợ, sự
hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ
trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được.
- Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau
Phủ và Nhật; Cơ và Phá;
Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.
- Tính chất của các căp
nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể
cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay không cùng loại. Chúng tồn tại
song song với nhau như hai mặt của vấn đề.
- Thiên Cơ hệ thống hợp
với Phá Quân bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm.
Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là
sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm
là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.
- Phủ Nhật hỏa thổ
tương sinh cùng là sao dương. Thiên Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Thái
Dương chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.
- Đồng Tham cùng là sao
dương thủy mộc tương sinh. Tham Lang chủ vơ vét tư túi, Thiên Đồng chủ phúc
chia sẻ xởi lởi.
- Vũ Nguyệt cùng là sao
âm kim thủy tương sinh, Vũ Khúc chủ luồn lách khéo léo, Thái Âm lại chủ thu liễm
an định.
- Liêm Lương đều là sao
âm, hỏa thổ tương sinh. Thiên Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung.
Liêm Trinh chủ nguyên tắc hình phạt.
- Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp.
Tử Vi đó là sự cô độc
chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai.
Cự Môn đó là sự chống đối
bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai.
Thất Sát là sát thủ cô
độc.
Thiên Tướng là sự chấp
chưởng hành chính không lôi thôi.
LỤC HẠI
- Lục hại là sự cạnh
tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn
học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên
nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể
không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung
chiếu tất sẽ sai và thêm rối.
- Các bộ sao lục hại
vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật.
- Cặp Sát Nhật cùng là
sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Thái Dương bị đối chọi
bởi tính hủy diệt của Thất Sát.
Thái Dương tuy là văn
tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí
sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không
phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.
- Cặp Tử Vi Cự Môn: sự
chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ
của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn
phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.
- Cặp Cơ Tướng: Thiên
Cơ ngả theo cái ác để chống đối Thiên Tướng (Cơ nhị hợp Phá, lục hại Tướng. Hợp
cái xấu của Phá mà phá cái tốt của Tướng)
Thế lục hại của Cơ Tướng
lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất.
Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị
khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống
của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.
- Đồng Lương chỉ hợp
không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương.
- Tham Lang tuy là tham
trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của
Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.
Luận cung phu thê trong tử vi.
Bài này nói về cách thức luận
cung phu thê trong môn Tử Vi. Tất nhiên theo Nam Phái, vì Bắc Phái lằng nhằng mà
tôi cũng chẳng thạo.
Trước hết nhắc lại 3 ý đã từng nói đến trong bài: “những giới hạn của Tử Vi”.
- Tử vi không thể dự đoán chính xác năm kết hôn.
- Tử Vi không thể chỉ ra được người
bạn đời của mình như thế nào.
- Tử vi, không thể chỉ ra 2 lá số
có lấy nhau được hay không.
Vì sao lại như vậy thì mời các bạn
đọc lại link sau: https://www.lethuc.com/2016/10/nhung-gioi-han-cua-tu-vi.html
Xem phu thê là việc hầu như ai cũng
quan tâm. Nhưng trong sách tử vi viết về mệnh thì nhiều mà về phu thê thì ít. Nên
rất nhiều người cứ vô tư, hồn nhiên mà áp những tính chất của mệnh lên phu thê.
Và coi rằng vợ/chồng của mình phải tương ứng như vậy.
Điều này hiển nhiên là sẽ dẫn đến nhiều sai lầm.
Phu thê trước hết phải xét 2 phương
diện: sự nghiệp/tiền bạc và tình cảm.
1. Xét phương diện tình cảm.
Cung phu thê là 1 cung rất nhạy cảm.
Cũng như cuộc sống của 1 cặp vợ chồng, rất nhạy cảm. Nóng quá cũng dở mà nguội
quá cũng dở. Đu đưa đào hoa cũng dở mà lãnh đạm khô khốc cũng dở.
Do đó xét phương diện này thì cứ
bất cứ sát tinh (Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp), ám
bại tinh (Cự Môn, hóa kỵ, thiêu riêu…) cho đến các sao biến động quá mức (Phá
Quân, Thất Sát…) đều ít nhiều tạo ra điều xấu.
Thậm chí những sao chủ về tình cảm
nhạt nhẽo, khô cứng như Vũ Khúc, Cô Thần Quả Tú, Lộc Tồn. Hay những sao dễ nổi
chuyện bất hòa cãi nhau như Thiên Lương, Thái Dương, Liêm Trinh… rơi vào phu thê
đều có ý nghĩa xấu về tình cảm.
Ô, thế thì xấu quá xấu quá, hầu
như mọi người ai cũng dính hết rồi còn gì nữa.
Đúng như vậy, hôn nhân của chúng ta nhìn từ bề ngoài thì đẹp đẽ chứ gia đình ai
cũng có những rắc rối riêng. Nhưng nếu các sao trên đi kèm những sao cứu giải, tình
cảm như Hỷ Thần, Hồng Loan, Thanh Long; các sao thể hiện chăm sóc chu đáo như
Thiên Tướng Thiên Phủ, các sao tình cảm mà học thức như Xương Khúc, Hóa Khoa v.v…
Thì vẫn có vấn đề, nhưng sẽ chịu đựng được lẫn nhau.
Chung quy hôn nhân cũng là thử thách
xem 2 người chịu đựng nhau tốt đến mức nào thôi mà.
2. Xét phương diện sự nghiệp / tiền
bạc.
Dĩ nhiên, ta có thể xem xét dựa
theo những cách cục của cung mệnh. Mệnh có cách cục nào tốt, đa số áp vào cung
phu thê cũng có ý nghĩa tốt. Nhưng lưu ý vài điểm:
- Với mệnh có những cách cục thuộc
về phản cách là tốt (không vong, dụng sát tinh…) nhưng áp vào phu thê thì có
khi lại ly tán sớm, không vợ không chồng. Nên thành ra cũng chẳng tốt.
- Nhìn cung phu thê ngập tràn các
cách cục mạnh mẽ cũng chưa hẳn là hay. Nó giống như chuyện vợ/chồng rất thành công
trong sự nghiệp nhưng lại bỏ bê gia đình. Do dính phải các sao xấu ở phương diện
1.
- Nếu cung phu thê đẹp, thể hiện
sự nghiệp/tiền bạc của vợ/chồng tốt, thì không có nghĩa sẽ vớ ngay được 1 người
đại gia/quan chức ngay từ đầu.
Cung phu thê nó là duyên. Và nó là
xu hướng (hay còn gọi là vượng phu/vượng thê).
Duyên tốt thì dễ kết nối hơn 1 chút.
Và nếu 1 người phụ nữ có số vượng phu, sau khi kết hôn thì chồng cô ta sẽ có xu
hướng phát triển sự nghiệp mạnh mẽ hơn, phát nhanh hơn. 5 điểm sẽ lên 6-7 điểm.
Mà 8-9 điểm sẽ lên 10 điểm. Nhưng không có chuyện 5 điểm leo lên 10 điểm được.
Trên đây là những ý cơ bản nhất để
luận cung phu thê. Đi vào chi tiết từng lá số sẽ phải nghiệm thêm nhiều. Và luận
cung này sai là chuyện thường, vì sao?
- Vì xem cho người khác ngoài bản
thân đương số.
- Vì nhiều khi đẹp-xấu trong mắt
thiên hạ, nhưng lại không như vậy trong mắt người vợ/chồng. Và chính người vợ/chồng
không khách quan được trong 2 điểm này.
- Vì nhiều khi luận xấu-đẹp nhưng
cặp vợ chồng vẫn còn trẻ, thời gian kết hôn chưa lâu, chưa thể nghiệm được đúng
hay sai.
Tử Vi và Tứ Trụ, 1 vài con số, 1 vài hạn chế.
1. Số lượng lá số tử vi và tứ trụ.
Số lượng lá số tử vi tối đa nếu tính theo 60 năm x 12 tháng x 30 ngày x 12 giờ x 2 là 518.400 lá số. Tuy nhiên có nhiều lá số thủy nhị cục và thổ ngũ cục trùng lặp nhau (trong cùng 1 tháng, có những lá số khác ngày nhưng giống nhau y hệt).
Thì số lá số thực tế chỉ vào khoảng 460.000 lá số.
Số lượng lá số tứ trụ tối đa: 60năm x 12 tháng x 60 ngày x 12 giờ x 2 = 1036800 lá số tứ trụ.
Và bạn thấy đấy. Từng đó lá số thể hiện cuộc đời của 7 tỷ người trên trái đất. Nên đừng nói chuyện duyên-nghiệp, Phật giáo, kiếp trước kiếp sau gì cả. Vì 2 môn Tử Vi – Tứ Trụ chỉ là công cụ dự đoán mà thôi. Sau này có các công cụ dự đoán chính xác hơn, mạnh mẽ hơn (trí tuệ nhân tạo AI, dữ liệu lớn BigData) thì 2 môn này sẽ dần bị mai một.
Thời xưa khoa học chưa phát triển, người ta quan sát mây, đo lượng mưa, nghe ngóng xung quanh để dự đoán thời tiết. Đó là các công cụ thô sơ, nhiều hạn chế. Sau này có siêu máy tính, có vệ tinh, tính toán chính xác hơn.
Giả sử nếu có siêu máy tính và vệ tinh quay về thời trung cổ, dự báo thời tiết trước được cả tuần, thì sẽ được phong thánh, được xem là thần kết nối với thượng đế, là tiên nhân chuyển kiếp v.v….
2. Một lá số tử vi, có thể có 2 lá số tứ trụ, và ngược lại.
Chuyện 1 lá số tử vi có 2 lá số tứ trụ là rất thường gặp. Cứ lấy 1 lá số đúng ngày âm lịch, sau 60 năm là đã khác.
Ví dụ:
Một em bé sinh hôm nay (12/7 năm Canh Tý âm lịch), giờ Ngọ. Có bát tự là Canh Tý – Giáp Thân - Ất Tỵ - Nhâm Ngọ.
Một người 60 tuổi, cũng sinh 12/7 năm Canh Tý giờ Ngọ, nhưng cách đây 60 năm, là năm 1960. Sẽ có bát tự là Canh Tý – Giáp Thân – Quý Tỵ - Mậu Ngọ.
Theo tử vi thì lá số 2 người giống hệt nhau. Nhưng theo tứ trụ thì khác nhau rất xa (vì khác ngày Ất Tỵ và Quý Tỵ, trong tứ trụ thì can ngày là trọng điểm).
Chuyện 1 lá số tứ trụ nhưng có 2 lá số tử vi khác nhau, cũng có nhưng tỉ lệ ít hơn nhiều.
Vậy trong các trường hợp đó, môn nào sẽ chính xác hơn đây. Môn nào thể hiện số phận đây ??
3. Cùng 1 lá số tứ trụ, 2 nơi sinh khác nhau có 2 lá số tử vi khác nhau.
Lấy ví dụ tháng 2 âm lịch năm Kỷ Hợi 2019. Ngày âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc lệch nhau 1 ngày.
1 em bé sinh vào 7h30ph tại Hà Nội. Tháng 2 âm lịch năm Kỷ Hợi 2019.
Và cùng thời điểm đó 1 em bé sinh 8h30ph tại Bắc Kinh (tính giờ Bắc Kinh, lệch Hà Nội 1 giờ).
Tính ra cả 2 bé sinh cùng 1 lúc, có tứ trụ giống nhau.
Nhưng lại có lá số tử vi khác nhau.
Vậy thì xem tử vi hay tứ trụ chính xác hơn trong trường hợp này??
4. Lá số tứ trụ của người phương Tây?
Sau khi xem xét nhiều lá số tứ trụ của người Mỹ, châu Âu không thấy chính xác, ông Thiệu Vĩ Hoa – 1 người có tiếng ở Trung Quốc đã đưa ra nhận xét: cần phải chuyển về giờ Bắc Kinh mới xem được.
Tuy nhiên, Bắc Kinh không phải là trung tâm của thế giới. Liệu nhận xét này có mang tính chủ quan hay màu sắc chính trị??
Nếu không chuyển về giờ Bắc Kinh, mà vẫn xem xét giờ sinh tại địa phương. Thì hàng loạt lá số tứ trụ không đúng kia sẽ như thế nào??
5. Tuyến đổi ngày với tứ trụ?
Chúng ta có 1 tuyến đổi ngày nằm trên Thái Bình Dương. 2 phía của tuyến đổi ngày là 2 ngày khác nhau.
Như ta đã biết, ngày để tính tứ trụ cứ nối tiếp nhau theo Can-Chi chứ không dựa trên âm lịch. Ví dụ, hôm nay ngày 30/8/2020 là ngày Ất Tỵ, thì ngày mai là ngày Bính Ngọ.
Vậy thì, sẽ có 1 thời điểm, mà Hà Nội đang ở ngày Ất Tỵ, còn Bắc Kinh đã chuyển sang ngày Bính Ngọ.
Và trái đất cũng chia 2 phần. 1 phần trong ngày Ất Tỵ, 1 phần trong ngày Bính Ngọ.
Như vậy sẽ tồn tại 1 tuyến đổi ngày. Mà 2 phía của tuyến, là 2 ngày khác nhau.
Vậy thì tuyến đó nằm ở đâu?
Tôi lại đặt ra thêm 1 câu hỏi. Nếu tuyến đổi ngày đi qua 1 hòn đảo. Cư dân trên hòn đảo về mặt tự nhiên (ánh sáng, gió, giờ…) là gần như nhau. Nhưng vì có cái tuyến đổi ngày, nên 1 nửa đảo đang ở ngày Ất Tỵ, 1 nửa đảo ở ngày Bính Ngọ.
Vậy thì 2 em bé sinh ra cùng lúc trên 2 nửa đảo sẽ có số phận khác hẳn nhau ư? Trong khi thực ra 2 em bé này phải có số phận gần gần như nhau
6. Tất cả những điều trên cho thấy gì?
Dù tử vi hay tứ trụ, đều chỉ là các công cụ (tool) dự đoán tương lai, dự đoán số phận con người, với mức độ hạn chế.
Độ chính xác của 2 môn này được ước đoán khoảng 70%.
Sẽ có những người, lá số tử vi, tứ trụ thể hiện được nhiều với độ chính xác cao, lên đến 80-90%.
Nhưng cũng có những người, lá số tử vi, tứ trụ thể hiện độ chính xác thấp (dưới 40%, mặc dù có giờ sinh đúng). Trong những trường hợp này. Chúng ta không nên dự đoán bằng tử vi, tứ trụ nữa.
Tử vi, tứ trụ đều chỉ là các công cụ, các phương pháp đo đạc tính toán. Không phải phép màu, không phải cái gì thần thánh, cũng không phải nhân duyên tiền định, kiếp trước kiếp sau gì cả. Đừng nghe mấy ông thầy suốt ngày rảo giảng đạo lý tiền kiếp, Phật giáo rồi cứ cố gán ghép Phật giáo với tử vi.
Bàn về sao Thiên Tướng.
Sao Thiên Tướng là 1 sao tính chất rõ ràng, dễ xem dễ luận, đặc điểm cũng ghi rõ trong các sách kinh điển. Nhưng vì nhiều lý do mà có rất nhiều hiểu nhầm về nó. Trong bài này tôi sẽ làm rõ lại 1 số ý (cũng từ sách kinh điển mà ra) cộng thêm nghiệm lý cá nhân.
1. Tướng không phải là tướng lĩnh quân đội.
Trước hết, chữ Tướng (相) trong Thiên
Tướng nghĩa là hỗ trợ, cũng có nghĩa ám chỉ làm quan (quan tướng). Các từ có chữ
này là Tướng Quốc (quan hỗ trợ quốc gia), tể tướng (hỗ trợ chúa tể), thủ tướng
(quan đứng đầu).
Nó khác hoàn toàn với chữ Tướng (將)
nghĩa là chỉ huy, tướng lĩnh.
Do đó Tử Vi đi với Thiên Tướng tức là vua Tử Vi có người hỗ
trợ. Chứ không phải vua Tử Vi đem tướng lĩnh ra trận.
Thiên Tướng gặp Triệt, luận là tướng ra trận bị chặt đầu
cũng không đúng. Làm gì có tướng ra trận nào ở đây.
Suy luận tính uy dũng, mạnh mẽ, chỉ huy của sao Thiên Tướng
dựa trên tên của nó là không đúng.
Sao Thiên Tướng của chúng ta mang nghĩa văn nhiều hơn là võ.
Do đó cần hội nhiều văn tinh Tả Hữu Xương Khúc, Ân Quang
Thiên Quý.
2. Thiên Tướng tính cách rất rõ ràng.
Với sao Thiên Tướng, nếu đã ứng vào thì tính cách thường rất
rõ ràng, dễ luận. Cầu kì, thích ăn ngon mặc đẹp, coi trọng quan hệ xã hội. Và
có 1 số đặc trưng dễ thấy:
- Rất coi trọng quan hệ xã hội. Thường sợ người khác nghĩ xấu
về mình. Việc đi cùng ai, ngồi cùng ai, làm việc với ai rất quan trọng.
- Cầu kì, có phần khó tính trong việc ăn uống, quần áo,
không gian sống.
- Ngay thẳng, chính trực. Rất khó làm việc xấu việc ác. Đây
là đặc điểm chung của các sao dương. Nhưng Thiên Tướng thể hiện rất rõ điểm
này. Nếu có làm việc gì sai trái cũng chỉ dám làm mức độ nhỏ, không thể làm
chuyện lớn.
Nếu cuộc đời bi đát, không thuận lợi, Thiên Tướng chọn cách
rũ bỏ, xa lánh đời thường, làm thầy bói, đi tu, chứ không chịu làm cướp, hay sử
dụng mọi thủ đoạn để tồn tại.
- Thông minh sáng dạ, dù hãm địa vẫn thông minh.
- Không mạnh mẽ quyết tâm, không tham vọng, nếu không bị
thúc ép thì cũng rất lười nhác, độ chủ động không cao.
3. Thiên Tướng có đủ phúc, quyền, lộc.
Bộ 2 sao Thiên Phủ, Thiên Tướng luôn tam hợp với nhau. Chỉ cần
1 trong 2 sao này đắc địa, không bị sát tinh phá hoại, không gặp Tuần Triệt, Đại
Tiểu Hao. Mệnh thân vào đó là đã đủ phúc, lộc, và có địa vị trong xã hội.
Thiên Tướng như cái ấn, dù không có quyền lực thật sự nhưng
vẫn có cái uy tín, địa vị. Thiên Phủ như cái kho tiền, tiền bạc tài lộc dồi
dào. 2 sao này không bị phá hoại là đã đủ phúc lộc tự nhiên mà có không cần nhọc
sức nhiều.
Kể cả mệnh vô chính diệu, hội Thiên Phủ Thiên Tướng, không bị
sát tinh phá hoại thì cũng đủ phúc cao lộc dày, sống thọ chứ không phải yểu mệnh.
Kình - Đà
Sách đẩu số toàn thư có viết: “Hãm địa tham liêm vũ phá
dương đà sát thấu, xảo nghệ an thân.”
Nghĩa là Thiên Tướng có gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Kình
Dương, Đà La thì cũng không bị các sao này làm biến chất, không tham lam mà biến
thành tiểu nhân được. Sẽ chỉ làm việc tay chân, việc thủ công, dựa vào tay nghề
khéo léo (và đầu óc thông minh) để an thân.
Không – Kiếp:
Thiên Tướng đắc địa không sợ không kiếp. Nhưng không kiếp có
thể làm Thiên Tướng biến chất. Trở nên ảo tưởng, phi thực tế. Do đó nhiều khi
cũng tự lừa dối bản thân mà trở thành gian manh, xảo trá, hay làm chuyện xấu (để
phục vụ lý tưởng riêng của Thiên Tướng, mà Thiên Tướng cảm thấy cần làm chuyện
xấu vì nghĩa lớn).
Do đó Thiên Tướng gặp Không Kiếp rất khó thành công. Kể cả
trường hợp Không Kiếp đắc địa ở Tỵ Hợi thì cũng phải cần thêm cát hóa (ân quang
thiên quý) để hỗ trợ.
Bản chất Thiên Tướng cần tĩnh chứ không cần động. Cái động của
Không Kiếp làm Thiên Tướng lao đao vất vả.
Thiên Tướng hãm địa thì sao. Càng nguy hiểm. Thường biến chất
thành kiểu : “cướp người giàu chia cho người nghèo”. Về cơ bản cũng giống như
trên nhưng xuất thân hèn kém, lao đao khổ cực hơn.
Hỏa – Linh.
Thiên Tướng vốn cũng không sợ hỏa – linh. Tuy nhiên hỏa –
linh không giúp Thiên Tướng phát đạt, cũng không giữ vững cái ổn định cho Thiên
Tướng.
Gặp hỏa tinh, linh tinh thì Thiên Tướng thông minh, có chí
khí nhưng thường nặng về triết lý, thích hợp tu đạo. Hãm địa thì nhiều khi làm
thầy bói, đi tu sớm. Đắc địa có phúc lộc thì tu tại gia, làm từ thiện nhiều.
Tại sao người trẻ thành công thường không tin vào số phận?
Dễ hiểu thôi. Con người ta ai cũng muốn được đề cao, ai cũng muốn được ngợi khen. Do vậy việc họ phủ nhận vai trò của số phận là có ý muốn khẳng định rằng: tôi xứng đáng với thành quả tôi nhận được. Những đồng tiền tôi đang nhận, xe tôi đang đi, nhà tôi đang ở hoàn toàn tương xứng với công sức và tài năng của tôi.
Chính do vậy nếu tin rằng tài năng và nỗ lực của bản thân là quan trọng thì sẽ giúp chúng ta giải quyết được các nhiệm vụ khó khăn, lúc này việc phủ nhận vai trò của may mắn là có thể hiểu được.
Còn trong đầu tư kinh doanh, việc này lại rất nguy hiểm.
Khi quá tự tin vào bản thân, tin rằng “bàn tay ta làm nên tất cả” mà xem thường vai trò của may mắn. Thì rất dễ gặp thất bại. Vì những người kinh doanh thành công nhất, đều là những người may mắn nhất.
Tuy nhiên, khi con cái đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nên có những tác động đến suy nghĩ của con. Để tránh việc con cái quá tự tin vào bản thân, tự thổi phồng tài năng, nỗ lực của mình mà xem thường các yếu tố khác. 1 chút cân bằng, hiểu thêm về số phận, may mắn, sẽ giúp con cái tránh được việc đầu tư mạo hiểm, liều lĩnh, cuốn trôi hết tài sản vào những dự án khởi nghiệp dễ thất bại..
Độ chính xác của 1 thầy bói.
Nhìn tên sao đoán tính chất – 1 số sai lầm thường gặp.
Sau đây là 1 số sai lầm thường gặp.